Trong chuyên ngành gây mê hồi sức, xác định mức độ mê của người bệnh là một yêu cầu cần thiết và quan trọng. Quá trình này đòi hỏi phải có những điểm mốc hướng dẫn quá trình gây mê, đi từ mê nông (độ mê quá nhẹ), đến độ mê sâu (tức độ mê quá nhiều), hay ngược lại, làm sao cho phù hợp với từng loại phẫu thuật và từng giai đoạn của phẫu thuật, cho từng người bệnh. Hơn nữa, một khi đã xác định được độ mê chính xác thì người gây mê có thể dùng một số lượng thuốc mê ít nhất, nhưng phải đủ đảm bảo cho cuộc phẫu thuật tiến hành thuận lợi và quan trọng nhất là phải đảm bảo được an toàn cho bệnh nhân, tránh dùng thuốc gây mê quá nhiều, bởi vì hầu hết thuốc mê đều là thuốc độc, những thuốc này thường gây độc hại, gây ra những tai biến, biến chứng rất nguy hại cho người bệnh.
Sự thức tỉnh trong gây mê sẽ xảy ra khi bệnh nhân được gây mê không đủ liều thuốc. Điều này sẽ làm bệnh nhân rơi vào tình trạng thức tỉnh khi đang được phẫu thuật, từ đó bệnh nhân sẽ cảm thấy đau, hoặc nghe các cuộc nói chuyện trong quá trình phẫu thuật. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến bệnh nhân sẽ bị stress sau phẫu thuật. Không đủ liều thuốc là do trong quá trình thực hành gây mê người gây mê chưa dùng đúng tỷ lệ thuốc mê. Để giảm được nguy cơ thức tỉnh trong mổ và quá liều trên bệnh nhân, bệnh nhân phải được theo dõi và đánh giá một cách chính xác trong suốt quá trình phẫu thuật. Có một vài phương pháp được áp dụng để theo dõi DoA (độ sâu trong gây mê) như theo dõi dấu hiệu lâm sàng (đỗ mồ hôi, chảy nước mắt, kích cỡ đồng tử, độ ẩm của da và cử động chi) và những thiết bị hỗ trợ (điện tim, huyết áp, máy đo độ bão hòa oxy). Tuy nhiên, không có phương pháp nào đánh giá tình trạng của não trong suốt quá trình gây mê.
Hiện tại, các nhà gây mê hồi sức có thể đo được tác dụng của thuốc mê lên sóng não bằng cách dùng EEG (điện não đồ). Thiết bị này sẽ tạo ra những con số từ 0 (mê, đẳng điện) đến 100 (tình trạng tỉnh) nhằm đánh giá về mức độ mê như các thiết bị Cerebral State Monitor, chỉ số PS, State and Response Entropy, chỉ số Narcotrend và chỉ số Bispectral (BIS). Hơn nữa để theo dõi tình trạng thức tỉnh của bệnh nhân trong quá trình phẫu thuật, chỉ số BIS được dùng để kiểm soát sự thức tỉnh của bệnh nhân khi BIS trên 60. Tuy nhiên trong nghiên cứu một số trường hợp cho thấy, người gây mê hồi sức theo dõi bệnh nhân có BIS trên 70 nhưng bệnh nhân vẫn bất động và không di chuyển; huyết áp và mạch thì ổn định. Có sự bất lợi của theo dõi EEG là EEG luôn ổn định trong suốt quá trình gây mê ở mức độ nông, vừa và sâu. Do đó tình trạng thay đổi chính xác của bệnh nhân không được EEG theo dõi. Thiết bị theo dõi luôn cho ra giá trị như nhau dù bệnh nhân tỉnh hay mê. Mức độ đáp ứng với gây mê hồi sức khác nhau ở mỗi thể trạng bệnh nhân, vì vậy bệnh nhân có thể nhận được lượng thuốc mê khác nhau tùy thuộc vào tuổi, giới tính, cân nặng và dấu hiệu lâm sàng.
Trong việc chuẩn bị trước mổ, người gây mê hồi sức thực hiện trên bệnh nhân dựa vào những yếu tố sinh học của bệnh nhân như giới, tuổi, cân nặng, chỉ số BMI (chỉ số khối cơ thể) và dấu hiệu lâm sàng. Trong suốt cuộc phẫu thuật, quá trình gây mê được theo dõi dựa vào kinh nghiệm của người gây mê hồi sức, những phán đoán và những thông tin từ các thiết bị hỗ trợ. Thiết bị theo dõi độ mê sâu không sử dụng thông tin của bệnh nhân. Vì vậy, người gây mê hồi sức phải tổng hợp tât cả thông tin và đưa ra quyết định dựa trên kinh nghiệm chủ quan của bản thân.
Mục tiêu chính của nghiên cứu nêu trên là phát triển một phương pháp mới để giám sát quá trình chuyển đổi trạng thái gây mê và xác định sự đáp ứng của mỗi cá nhân đối với sự dẫn mê bằng thuốc mê tĩnh mạch, nhằm giảm nguy cơ thức tỉnh trong mổ của bệnh nhân và giảm liều thuốc mê.
Nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng trên 171 bệnh nhân từ 17 đến 86 tuổi, được phẫu thuật vùng bụng, tất cả dẫn mê bằng propofol và duy trì mê bằng sevoflurane. Tất cả bệnh nhân được điều chỉnh độ mê dựa trên BIS và các dấu hiệu lâm sàng.
Theo đó, đã phát triển chỉ số DoA cá nhân dựa trên tổ hợp các tín hiệu đầu vào như EEG, giới, tuổi, cân nặng, chỉ số BMI và dấu hiệu lâm sàng để phân tích tình trạng não liên quan đến quá trình gây mê. Khi sử dụng máy BIS thì giá trị chỉ số mất ý thức (LOC) và tỉnh mê (ROC) có chỉ số BIS (chỉ số theo dõi độ mê BIS) giống nhau. Giá trị PR (đáp ứng của bệnh nhân) có thể thay đổi đối với từng bệnh nhân trong nhóm có cùng thông số như tuổi, giới tính, cân nặng, chỉ số BMI và dấu hiệu lâm sàng. Vì vậy, lượng thuốc mê sử dụng có thể khác nhau giữa bệnh nhân này và bệnh nhân khác trong cùng một nhóm có cùng các thông số, và chỉ số PR có thể hỗ trợ người làm công tác gây mê xác định mức độ đáp ứng cá nhân của bệnh nhân đối với thuốc mê tĩnh mạch để điều chỉnh liều lượng thuốc mê thích hợp cho từng bệnh nhân.
Các tác giả cũng đề xuất chỉ số mới PDoA (chỉ số độ mê của mỗi bệnh nhân) để xác định sự thay đổi các giai đoạn khác nhau của bệnh nhân liên quan quá trình gây mê phẫu thuật. Dựa trên chỉ số PDoA sẽ đánh giá mức độ gây mê sâu của bệnh nhân chính xác, rõ ràng và được dự báo theo 5 cấp độ gây mê: mất ý thức, mê nhẹ, mê vừa, mê sâu và tỉnh mê. Đồng thời kiểm soát tốt hơn quá trình gây mê, tránh gây mê nông hoặc quá sâu, ngăn ngừa tỉnh mê trong khi phẫu thuật và rút ngắn thời gian tỉnh mê. Kết quả này có thể áp dụng để tối ưu hóa liều lượng thuốc gây mê, nhằm đem lại sự an toàn cho bệnh nhân trong gây mê và phẫu thuật. Hơn nữa, kết quả nghiên cứu sẽ được áp dụng để phát triển thiết bị mới trong theo dõi độ mê sâu bằng cách kết hợp tín hiệu EEG và dữ liệu sinh học của bệnh nhân để cá nhân hóa chỉ số độ sâu gây mê cho từng bệnh nhân, điều này sẽ làm giảm sự đánh giá chủ quan bằng kinh nghiệm của người gây mê.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài tại Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ (CESTI).
Lam Vân (CESTI)