Đánh giá sản lượng cá khai thác ở hồ Trị An
11/06/2014
KH&CN trong nước
KH&CN trong nước
Đề tài "Đánh giá sản lượng cá khai thác ở hồ Trị An theo ngư cụ và thành phần loài" do nhóm tác giả Vũ Cẩm Lương, Nguyễn Phú Hòa, Lê Thanh Hùng (Trường ĐH Nông lâm TP. HCM) thực hiện nhằm đề xuất quy trình đánh giá sản lượng thủy sản thông qua việc khảo sát ngư cụ và thành phần loài cá khai thác, qua đó cho phép nhà quản lý có được thông số sản lượng khai thác không chỉ cho toàn hồ mà còn cho từng đối tượng giống loài thủy sản.
Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát hiện trạng khai thác thủy sản ở hồ Trị An với các dữ liệu về năng suất khai thác trên từng nhóm ngư cụ, số lượng và thời gian hoạt động của các nhóm ngư cụ và tỷ lệ thành phần loài các khai thác trên từng nhóm ngư cụ.
Về hiệu suất khai thác của 19 loại ngư cụ cho thấy, có 7 loại ngư cụ chỉ hoạt động 1 mùa trong năm, trong khi 12 loại ngư cụ khác hoạt động quanh năm. Các hình thức khai thác có hiệu suất cao trên 42 kg/ngày bao gồm nghề vó, te, chài rê, lưới rùng và lưới giựt. Tổng sản lượng khai thác năm 2008 của 19 nhóm ngư cụ có đăng ký hợp pháp ở hồ Trị An là 3.819 tấn/năm. Có 4 loài cá dẫn đầu sản lượng (từ 448-727 tấn/năm) chiếm tỷ lệ đánh bắt hơn 50% tổng sản lượng toàn hồ bao gồm cá sơn xiêm, cá cơm sông, cá ba dong và cá lìm kìm. Các đối tượng cá kinh tế nằm trong nhóm có sản lượng khai thác trên 100 tấn/năm gồm mè vinh, bống tượng, rô phi, trèn đá và chốt. Trong số 40 loài và nhóm loài cá khai thác phổ biến thống kê được trong nghiên cứu này, có tới 20 loài (chiếm 50%) có sản lượng không quá 6,2 tấn/năm và có 9 loài (chiếm 23%) có sản lượng không quá 0,6 tấn/năm.
Để kết quả nghiên cứu có thêm giá trị ứng dụng thực tiễn, các đơn vị quản lý thủy sản trên hồ chứa Trị An cần triển khai thu thập số liệu đăng ký ngư cụ và thời gian hoạt động hàng năm của các nhóm ngư cụ. Khi đó, việc khảo sát thêm thông số biến động hiệu suất khai thác hàng năm của các nhóm ngư cụ cho phép tính nhanh sản lượng khai thác thủy sản của từng nhóm ngư cụ cũng như tổng sản lượng khai thác trên toàn hồ.
LV (TC KHKT Nông lâm nghiệp, số 2-2013)