Bệnh sán gạo ở tuỷ sống
17/01/2008
KH&CN trong nước
KH&CN trong nước
Đề tài do nhóm tác giả Bùi Quang Tuyển, Đặng Đình Nam, Bùi Quang Dũng (Bệnh Viện Quân Y 103), Đặng Ngọc Huy (Bệnh Viện C Tỉnh Thái Nguyên) thực hiện, giới thiệu một trường hợp sán gạo ở tuỷ (một bệnh hiếm gặp) đã được chẩn đoán và mổ thành công tại Bệnh Viện 103 và điểm qua tài liệu về bệnh lý này.
Bệnh sán gạo còn gọi là bệnh do ấu trùng sán dây. Sán dây cư trú ở ruột non người trưởng thành, có thể dài 2-3cm, gồm đầu sán, cổ và nhiều đốt sán. Trong phân người bệnh sán có rất nhiều trứng sán. Nếu trứng được vật trung gian nuốt phải (thường là lợn), ấu trùng sán được giải thoát ở ruột non, thấm qua niêm mạc ruột vào máu và khu trú chủ yếu ở cơ, gọi là lợn gạo.
Triệu chứng lâm sàng bệnh sán gạo gồm sán gạo ở não là bệnh nhân có thể xuất hiện một trong những triệu chứng như động kinh, tăng áp lực sọ não, viêm màng não, rối loạn tâm thần, có những nốt sần dưới da; sán gạo ở tuỷ gặp 2 thể là viêm tuỷ (do nang sán nằm rải rác trong các tuỷ) và thể u tuỷ (do nang sán kết dính lại với nhau), không có triệu chứng đặc hiệu, chẩn đoán quyết định vào chụp cộng hưởng từ và GPBL.
Bệnh án trong nghiên cứu này là một bệnh nhân nam, 42 tuổi, các triệu chứng là đau cột sống thắt lưng, đi lại hạn chế và bại yếu 2 chân, bí tiểu… Qua theo dõi và điều trị cho kết luận là u nang sán gạo, dạng kết dính các nang sán lại với nhau, bên trong không có đầu sán nên GPBL cũng gặp khó khăn, không phân biệt được chủng loại sán. Bệnh nhân trải qua 3 lần mổ mới loại bỏ được u nang sán.
Kết luận cho thấy, gần 30 năm qua chỉ gặp 2 trường hợp bệnh sán gạo ở não và 1 trường hợp sán gạo ở tuỷ sống. Sán gạo ở tuỷ tái phát được mổ 3 lần cho kết quả tốt. Việc chẩn đoán lâm sàng cũng như chụp cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ đối với sán gạo ở tuỷ là rất khó khăn. Kết quả giải phẫu bệnh nhân cho chẩn đoán quyết định. Bệnh sán gạo có thể được ngăn chặn nếu mọi người có ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước sạch, bảo vệ thực phẩm, ăn rau sạch, nấu chín, không ăn thịt lợn tái.
LV (nguồn: Tạp chí Y học thực hành, số 11/2007)