Tình hình sản xuất và tiêu thụ
Chim cút là loài chim nhỏ, mập mạp, bắt nguồn ở châu Á, sống trên đất liền ở những vùng có khí hậu ấm áp, ăn hạt, nhưng cũng ăn được cả sâu bọ và các con mồi nhỏ, làm tổ trên mặt đất. Thịt chim cút gần giống thịt gà nhưng tốt hơn, có hàm lượng protein cao, chất béo thấp (khi bỏ da, chất béo giảm 60-80% so với gà). Trong thành phần lipid, tỉ lệ acid béo không bão hòa cao. Ngoài ra, thịt cút còn giàu khoáng chất, nhất là phospho, sắt, đồng, kẽm, và selenium. Hàm lượng vitamin niacin (vitamin B3) và pyridoxine (vitamin B6) trong thịt chim cút cao hơn đáng kể so với thịt gà.
So với các loài vật nuôi khác, chim cút là loài được thuần hóa khá trễ. Chúng được thuần hóa đầu tiên từ thế kỷ XI tại Nhật. Tuy nhiên đến đầu thế kỷ XX, chúng mới được nuôi để sản xuất thịt và trứng. Trên thế giới, hiện có nhiều giống chim cút được nuôi với số lượng lớn trong các trang trại để sản xuất thịt và trứng, chủ yếu là chim cút Nhật Bản, Coturnix japonica.
Ở Việt Nam, các giống đầu tiên được nhập vào nước ta là giống cút Pharaoh và giống cút Pháp. Trong đó, cút Pharaoh trưởng thành nặng khoảng 180-200g, trứng có vỏ trắng, đốm to màu đen nhạt, nhưng do giống này có nguồn gốc hoang dã nên sản lượng kém và ít thích hợp nuôi nuôi nhốt trong chuồng. Cút Pháp trưởng thành có trọng lượng trung bình 250-300g, lông trắng hơn cút Paraoh, trứng cút Pháp có nền vỏ trắng và đốm đen nhỏ như đầu đinh. Phần lớn đàn cút nước ta hiện nay đều có nguồn gốc từ giống này. Ngoài ra, còn có một số ít cút thuộc giống cút Anh, có trọng lượng khoảng 220-250g lông sẫm, trứng có nền nâu nhạt đốm đen to. Trên thị trường hiện nay, do các giống này không được nhập mới nên lượng con thuần còn lại rất ít, các giống này chủ yếu chỉ còn con lai nên chất lượng con giống không đồng đều.
Những năm cuối thế kỷ XX, do nhu cầu tăng cao, Viên Chăn nuôi đã nhập thêm các giống cút Nhật và Mỹ có năng suất cao để nghiên cứu cung cấp cho thị trường. Trong đó, người nuôi thường chọn nuôi giống cút Nhật chuyên trứng. Giống cút này thích nghi tốt với khí hậu nước ta, tỉ lệ nuôi sống đến 6 tuần tuổi đạt 95%. Chúng có trọng lượng khá thấp, tối đa khoảng 160-190g, tỉ lệ đẻ trứng cao 85-90% (tương ứng khoảng 300-360 trứng/năm). Con cái đẻ lần đầu lúc khoảng 40 ngày tuổi và có thể được khai thác liên tục trong 14 tháng, sau đó giảm nhanh. Khối lượng trứng nặng khoảng 12-16g. Giống cút Nhật nên được chọn từ sau 20 ngày tuổi. Khi đó, con trống có lông đen mượt màu hồng gạch, con mái có lông ngực màu xám hồng và chấm đen. Còn với cút Mỹ, đây là loài có khả năng sinh sản tương đối thấp, tỉ lệ đẻ chỉ đạt trung bình khoảng 70%. Tuy nhiên, với thời gian nuôi ngắn chỉ 6 tuần và khối lượng cơ thể có thể đạt đến hơn 240g, giống này thích hợp với các mô hình sản xuất thịt.
Quy trình và phương pháp thực hiện
Quy trình úm cút con
Chọn chim cút giống
Cần chọn mua chim cút từ những cơ sở sản xuất giống bố mẹ có uy tín và trách nhiệm, chẳng hạn Viện Chăn nuôi Quốc gia hay các trang trại quy mô lớn, có nhiều kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm. Đàn bố mẹ phải khỏe mạnh, không bị dịch bệnh, có tỷ lệ đẻ, tỷ lệ ấp nở, nuôi sống cao, tăng trọng nhanh, ổn định và đồng đều... con trống và mái không đồng huyết, con giống không có dị tật, nhanh nhẹn, ăn khỏe...
Chim con được chọn lọc theo các đặc điểm ngoại hình: lông có màu đặc trưng của phẩm giống, đồng nhất, bông, xốp, mắt sáng, nhanh nhẹn, khối lượng chim cút mới nở lớn, cứng cáp, dáng đi vững vàng, phản xạ nhanh nhẹn; bụng thon, rốn kín. Cần loại những cá thể có khuyết tật về ngoại hình (ủ rũ, khoèo chân, hở rốn, bụng to, vẹo mỏ, hậu môn dính phân, quá nhỏ, lông bết…).
Úm cút con
Cút con nở ra phải úm ngay trong lồng úm quy cách 1.500x1.000x500mm, xung quanh bằng lưới ô vuông 1cm, cách mặt đất 0,5m. Những ngày đầu mới úm, đáy lồng và xung quanh phải lót giấy, che kín, yên tĩnh và không để cút bị lọt chân. Sử dụng thức ăn MH 611.
Nhiệt độ úm: tuần thứ nhất 34-35oC, sau đó giảm dần mỗi tuần 3oC, đến tuần thứ 4 không phải úm nữa.
Thoáng khí: lồng úm ấm áp nhưng phải thoáng khí.
Mật độ úm: 200-250 con/m2 (tuần 1), 150-200 con/m2 (tuần 2), 100-150 con/m2 (tuần 3), 50-100 con/m2 (tuần 4).
Đối với chim con nên cho ăn nhiều lần. Tuần đầu tiên nên cho ăn ít nhất 6-8 lần/ngày, mỗi lần cho ăn một ít để đảm bảo thức ăn luôn tươi mới, thơm ngon, hấp dẫn chim ăn nhiều hơn. Trước khi cho chim ăn, nên làm vệ sinh khay ăn. Thức ăn cũ còn thừa trong máng, cần sàng loại phân và trấu để tận dụng lại thức ăn. Thức ăn giàu dinh dưỡng, nhất là đạm (23-24%), sinh tố... cho ăn nhiều trong ngày. Nên bổ sung sinh tố vào nước cho cút uống thường xuyên. Trong tuần thứ 2, giảm số lần cho ăn xuống còn 4-5 lần/ngày và dần thay thế khay ăn của chim con bằng các loại máng ăn. Cần 1-2 cm chiều dài máng ăn cho 1 chim.
Quy trình chăn nuôi sau úm đến lúc xuất thịt
Cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi
Chuồng nuôi: kích thước phụ thuộc vào đối tượng nuôi, quy mô trại cũng như dụng cụ, thiết bị chăn nuôi và mức độ cơ giới hóa. Thường, các dãy chuồng nuôi công nghiệp có chiều dài 30-50m, rộng 7-10m và cao (không kể mái) 2,5-3,0m. Những vùng khí hậu nóng ẩm, sử dụng chuồng nuôi kiểu thông thoáng tự nhiên, không nên dùng kiểu chuồng quá rộng (trên 10m), vấn đề thông thoáng sẽ gặp nhiều khó khăn.
Khoảng cách giữa các chuồng nuôi: để giúp thông thoáng chuồng nuôi, khoảng cách giữa hai dãy chuồng phải lớn hơn 2,5 lần chiều rộng chuồng. Thường khoảng cách này tối thiểu 20-25m.
Máng ăn: máng cho chim trên 2 tuần kích thước 40x10x5cm, có thể làm bằng gỗ, tôn hay nhựa, móc ở bên ngoài cửa chuồng để chim thò đầu ra ăn. Với chim cút thịt, mặt trên máng ăn cần có lưới kích cỡ mắt 0,8x0,8 cm để tránh việc chim bới tung thức ăn, làm rơi vãi và tiêu hao thức ăn.
Nếu nuôi nền hoặc quây, treo máng bên cạnh tường hoặc trên nền chuồng, nhưng phải có thanh chắn giữa để chim không nhảy vào nằm và bới thức ăn.
Máng uống: có thể làm bằng nhôm, nhựa hoặc máng uống gallon, các loại bình nước nhựa úp ngược có kích thước nhỏ phù hợp cho chim. Máng có thể treo phía trước hoặc phía sau mỗi lồng. Nuôi chim cút số lượng lớn có thể áp dụng các loại máy uống tự động để giảm chi phí nhân công.
Dụng cụ tắm cát cho chim: xây 1 bể nhỏ (hoặc đổ vào khay nhựa, khay tôn) đựng cát vàng cho chim ăn cát sỏi; xây 1 bể nhỏ (hoặc dùng thau, chậu) cho chim tắm.
Đệm lót chuồng (chất độn chuồng): dùng trấu khô hoặc dăm bào để rải trên nền chuồng để thấm các chất thải, giữ cho nền chuồng khô ráo, ấm áp cũng như dễ dàng dọn vệ sinh .
Chất độn chuồng phải sạch sẽ, mới. Trước khi rải, cần đảo trấu cho thật khô, tơi xốp, sau đó sát trùng để đảm bảo vệ sinh.
Hệ thống chiếu sáng: chim cút giai đoạn nuôi thịt chủ yếu dùng bóng điện để cung cấp ánh sáng, căn cứ vào công suất của nguồn nhiệt và số chim nuôi để bố trí thích hợp.
Hệ thống thông gió: giúp cho tiểu khí hậu chuồng nuôi tốt hơn. Khi xây dựng chuồng nuôi phải tính toán sự thông khí. Thông khí tự nhiên (các lỗ thông hơi bố trí thêm trên tường và các lỗ thông kéo dài trên mái) có nhiều hạn chế do không thể đảm bảo thông khí đúng yêu cầu, nhất là vào mùa hè, khi chênh lệch nhiệt độ không khí bên trong và bên ngoài chuồng nuôi không lớn. Các cơ sở chăn nuôi hiện đại sử dụng hệ thống thông khí tích cực là quạt hút. Hệ thống quạt hút kết hợp với hệ thống phun sương, hệ thống tấm làm mát, trần cách nhiệt có bổ trợ thêm các barie không khí được làm mát, thông gió tốt vào mùa hè, khi thời tiết nóng bức, sẽ giúp tỏa nhiệt tốt hơn.
Trong điều kiện nóng ẩm, khả năng sản xuất của chim cút bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chim giảm lượng thức ăn thu nhận hàng ngày, giảm hiệu quả sử dụng thức ăn, giảm tốc độ sinh trưởng và chất lượng thịt, giảm sức đề kháng và khả năng đáp ứng miễn dịch. Tăng hiện tượng mổ cắn nhau, nên tăng nhu cầu về diện tích chuồng nuôi, nhu cầu về không khí sạch và chi phí làm mát.
Rèm che: để che chắn phía bên ngoài chuồng nuôi thông thoáng tự nhiên. Phần không xây tường chỉ được ngăn bằng lưới thép, rèm che (làm từ bạt, vải nhựa, bạt nilon, bao tải, cót ép) góp phần giữ nhiệt, bảo vệ đàn chim khi có những thay đổi về thời tiết như gió mùa, bão, mưa lớn. Rèm dài dùng cho các chuồng nuôi trên nền và rèm lửng dùng cho nuôi trên lồng.
Thường trong hai tuần đầu khi nuôi, rèm phải được đóng kín cả ngày đêm để tránh gió lùa. Từ tuần thứ ba chỉ đóng rèm bên có gió thổi (việc đóng/mở rèm che còn phụ thuộc vào thời tiết và sức khỏe của đàn chim). Từ tuần thứ tư, rèm che được mở hoàn toàn, trừ khi thời tiết xấu (giông, bão, mưa…) hoặc khi đàn chim bị bệnh đường hô hấp.
Thức ăn dành cho cút thịt
Thức ăn được sử dụng cho chim cút thịt phải đầy đủ, cân đối về dinh dưỡng trong đó đặc biệt chú ý đến nhu cầu năng lượng và protein. Nhu cầu năng lượng trao đổi thường ở mức cao, từ 2.900-3.100kcal/kg, Protein 22-24%, bổ sung thêm khoáng, vitamin, chất tạo màu. Khẩu phần thức ăn vỗ béo, nhiều tinh bột, ít đạm... cho ăn tự do cả ngày lẫn đêm. Tùy theo độ tuối, khối lượng cơ thể để xác định khẩu phần ăn cho phù hợp. Các loại thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh trên thị trường có đầy đủ và cân đối dinh dưỡng, sử dụng cho chim cút thịt ăn sẽ có tốc độ sinh trưởng nhanh.
Trong trường hợp có đủ các loại nguyên liệu thức ăn với giá cả hợp lý, có thể tự chế biến thức ăn nuôi chim thịt để giảm giá thành sản phẩm, theo công thức hỗn hợp thức ăn cho cút (tính trong 10kg):
TT
|
Nguyên liệu thức ăn
|
Khối lượng (kg)
|
1
|
Ngô (Bắp)
|
4,0
|
2
|
Tấm
|
1,0
|
3
|
Cám
|
0,7
|
4
|
Bột cá lạt
|
1,0
|
5
|
Bánh dầu đậu phọng
|
2,0
|
6
|
Bột đậu nành rang
|
0,5
|
7
|
Bột đậu xanh
|
0,5
|
8
|
Bột sò
|
0,1
|
9
|
Bột xương
|
0,1
|
10
|
Premix khoáng
|
0,01
|
11
|
Premix sinh tố
|
0,01
|
12
|
ADE gói 10gr
|
4 gói
|
13
|
Bột cỏ
|
-
|
Bảo quản thức ăn: kho bảo quản phải xây dựng ở nơi khô ráo, thoáng mát, chống dột, trong kho phải có hệ thống lạnh và hút ẩm.
Quy trình chăm sóc cút thịt
Mật độ nuôi
Với chuồng nền dùng đệm lót, mật độ 100-150 con/m2 (tuần 3), từ tuần 4 trở đi trung bình 50-70 con/m2. Với chuồng lồng, thường nuôi 25-30 con/lồng. Khi trời nóng, chỉ nuôi 20 con/lồng để tránh chim chết do chuồng chật.
Tiểu khí hậu chuồng nuôi
Nhiệt độ và độ ẩm của chuồng nuôi: để chim sinh trưởng tốt, đảm bảo nhiệt độ và độ ẩm chuồng nuôi thích hợp. Tuần thứ 3 trở đi không cần sưởi cút, trừ khi nhiệt độ bên ngoài xuống thấp hơn 24 -25OC. Sau 4 tuần tuổi nhiệt độ thích hợp trong chuồng nuôi là 200C. Độ ẩm thích hợp trong không khí chuồng nuôi từ 65-70%.
Chế độ chiếu sáng: chiếu sáng đến 21 ngày tuổi chỉ cần ánh sáng mờ, với cường độ 7-8 Lux hay 0,7-0,8 w/m2 nền chuồng. Ánh sáng phải phân bố đều trong chuồng nuôi và sử dụng đèn cùng công suất, công suất thấp. Tuyệt đối không dùng bóng đèn có công suất cao (từ 100w trở lên) vì chúng gây căng thẳng cho đàn chim.
Sự thông thoáng: nhu cầu lưu lượng không khí để cung cấp oxy cho cút rất lớn, do nhịp thở bình thường của cút lên đến 200 nhịp/phút. Trong điều kiện nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp, nhu cầu về lượng không khí mới của chim thịt từ 4-5m3/kg khối lượng cơ thể/giờ. Tốc độ gió trong chuồng nuôi ở hai tuần tuổi đầu là 0,2-0,3 m/giây. Các tuần sau tăng dần ở mức 0,3-0,6m/giây. Vào mùa hè, khi trời quá nóng, tốc độ gió có thể tăng lên đến 2 m/giây. Cần tạo ra luồng không khí 1 chiều trong chuồng nuôi để cung cấp được khí sạch và đẩy khí độc ra ngoài.
Kiểm tra trạng thái sức khỏe, khả năng tăng trọng của chim
Hàng ngày theo dõi trạng thái sức khỏe chim cút thịt, chế độ ăn uống để phát hiện bệnh kịp thời. Khi chim cút thịt mắc bệnh phải nhanh chóng điều trị theo đúng liệu trình. Cần hạn chế bắt chim cút, vì chúng rất nhút nhát và hoảng loạn, bị stress nặng khi bắt chim.
Tiến hành cân chim cút thịt ở từng tuần tuổi để xác định sinh trưởng tích lũy ở các thời điểm.
Cho chim uống nước
Dùng máng uống tự động hình trụ hay máng dài. Cần tối thiểu 1-1,5 cm chiều dài máng uống cho một chim. Nếu dùng hệ thống máng núm, cần bố trí đủ 15-20 con/núm.
Máng uống phải đảm bảo nước không rơi vãi làm ướt lớp độn chuồng hoặc rơi xuống lồng bên dưới, không làm bẩn nước trong máng. Vì vậy, máng uống nên đặt trên sàn đỡ lưới bằng tôn, bên trên có lưới bảo vệ; bố trí xen kẽ máng ăn và máng uống.
Cần cung cấp đầy đủ nước sạch, mát để kích thích chim uống nước. Máng phải vệ sinh hàng ngày theo đúng qui trình vệ sinh thú y. Kiểm tra lượng nước uống hàng ngày của đàn chim để đánh giá tình hình sức khỏe của chúng.
Phương pháp cho ăn
Có thể cung cấp thức ăn cho chim nuôi thịt như sau: 1-7 ngày cho ăn 6-8 lần/ngày; 8-14 ngày cho ăn 4-5 lần/ngày; 15-21 ngày cho ăn 3-4 lần/ngày; 22-xuất chuồng cho ăn 2-3 lần/ngày.
Cho chim thịt ăn vào mùa hè: vào mùa hè, chim có thể bị chết đột ngột sau khi ăn khoảng 15-30 phút. Chim càng sinh trưởng nhanh, ăn càng khỏe thì nguy cơ chết nóng sau bữa ăn càng cao. Ngoài các biện pháp khắc phục thông thường như sử dụng quạt chống nóng, tăng diện tích chuồng nuôi, sử dụng hệ thống làm mát…điều quan trọng là không cho chim ăn quá nhiều vào thời điểm nóng bức. Nên cho chim ăn vào lúc trời dịu mát (sáng sớm, chiều tối hoặc ban đêm) sẽ giảm được lượng chim chết nóng. Khi sử dụng phương pháp này cần phải đảm bảo đủ số lượng máng ăn.
Một số vấn đề cần lưu ý và biện pháp phòng ngừa bệnh
Bệnh cúm gia cầm (H5N1)
Bệnh gây ra bởi vi rút cúm type A, lây lan nhanh, làm chết nhiều loại gia cầm trong một thời gian ngắn, tỷ lệ chết có thể lên tới 100%. Chim sốt cao, uống nhiều nước; khó thở, viêm mũi, viêm xoang, chảy nước mắt, nước mũi, ho hen, hắt hơi, vảy mỏ. Tiêu chảy phân xanh, phân trắng, phân vàng. Xuất huyết da chân. Bệnh xảy ra quanh năm, nhưng dễ bùng phát vào mùa đông, xuân.
Bệnh không có thuốc điều trị đặc hiệu, do vậy sử dụng vaccine là một biện pháp hữu hiệu, tích cực để phòng bệnh cúm gia cầm.
Bệnh Gumboro
Là hội chứng gây suy giảm hệ thống miễn dịch ở chim cút (còn gọi là bệnh sida), do Birnavirus gây ra, với đặc trưng phá hủy túi Fabricius, khiến chim dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn khác. Mầm bệnh có thể sống hàng tháng trong chuồng trại, hàng tuần trong nước uống, thức ăn, phân. Bệnh thường chỉ xuất hiện ở đàn chim cút con, chim cút thịt từ 35-40 ngày tuổi. Chim cút bị bệnh gầy sút nhanh, da nhăn nheo, sẫm màu. Trên nền chuồng xuất hiện nhiều bãi phân màu trắng đục như sữa, sánh nhầy...
Phòng bệnh bằng vaccine Gumboro đạt hiệu quả cao. Thời gian nhỏ vaccine là ngày tuổi thứ 10 và ngày tuổi thứ 20.
Khi bệnh xảy ra, tách riêng những con yếu điều trị đặc biệt. Đồng thời sử dụng thuốc tiêm và cho uống điện giải. Dùng kháng thể Gumboro tiêm cho toàn đàn kể cả những con hoàn toàn khỏe mạnh. Cho uống hỗn hợp dung dịch Gluco 1% + Vitamin C 2% hoặc có thể thay thế bằng nước chanh + đường. Phát hiện sớm và điều trị tích cực, đàn chim cút đạt tỷ lệ khỏi bệnh đến 90%.
Bệnh tụ huyết trùng
Là bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi khuẩn Pasteurella multocida gây ra cho chim cút ở mọi lứa tuổi. Bệnh thường xảy ra vào lúc giao mùa, thời tiết thay đổi đột ngột. Bệnh khởi phát đột ngột, diễn biến cực nhanh.
Phòng, trị bệnh tụ huyết trùng cần giữ cho chim cút không bị stress. Chuồng trại phải thông thoáng, sạch sẽ, thức ăn đầy đủ dưỡng chất và vitamin, nước cung cấp phải sạch, không để con vật quá nóng hoặc lạnh. Thực hiện chặt chẽ nội qui về an toàn và vệ sinh thú y trong chăn nuôi, con người, dụng cụ trang thiết bị khi tiếp xúc với chim cút phải bảo đảm an toàn dịch bệnh. Không nuôi các vật khác loài cùng trại.
Chủ động phòng bệnh bằng vaccine cho chim cút, đặc biệt trước các thời điểm chuyển mùa. Liều vacxin được sử dụng từ 0,5-1ml/con/tiêm dưới da hoặc bắp thịt. Đối với đàn chim cút giống nên sử dụng vaccine nhũ dầu.
Bệnh cầu trùng
Do một loại ký sinh trùng hình cầu, ký sinh ở ruột phá hoại các tế bào niêm mạc ruột gây xuất huyết và tiêu chảy ra máu. Bệnh nhiễm chủ yếu qua đường tiêu hóa do thức ăn, nước uống hoặc ruồi, chuột mang mầm bệnh từ nơi khác nhiễm vào thức ăn cho cút. Khi bị bệnh, chim ăn ít, lông xù, phân có lẫn máu tươi hoặc màu xám đôi khi có lẫn bọt. Chim thường phát bệnh trong thời gian từ 5-15 ngày tuổi. Trên lứa tuổi này vẫn bị nhưng nhẹ hơn.
Để phòng bệnh, trộn một trong các loại thuốc (Rigecoccin, Anticoc, Avicoc, ESB3, Amfuridon hay Cocistop) vào thức ăn hay nước uống cho chim trong giai đoạn 7-10 ngày tuổi và giai đoạn 20-23 ngày tuổi. Để trị bệnh, dùng các loại thuốc trên, với liều dùng gấp 1,5-2 lần, liên tục 3-5 ngày. Đối với cút đẻ nên dùng Rigecoccin (hay Anticoc hoặc Amfuridon) thì tỷ lệ trứng đẻ không giảm.
Bệnh giun đũa
Do giun đũa Ascaridia galli ý sinh trong ruột non gây ra. Chim cút bị bệnh sẽ gầy yếu, giảm tăng trọng, nếu bị nặng sẽ có các tai biến như: tắc ống mật, tắc ruột, thủng ruột. Bệnh không gây chết nhiều, nhưng tổn hại kinh tế.
Phòng bệnh bằng cách định kỳ tẩy giun cho chim cút lớn và chim cút con bằng piperazin hoặc phenothiazin, vệ sinh nền chuồng, máng ăn. Nuôi riêng chim cút lớn và chim cút con.
Trị bệnh bằng một trong các loại thuốc như Levamisol 7,5%, Mebendazol 10%, Tayzu
Bệnh trúng độc nấm mốc trong thức ăn
Cút rất dễ nhạy cảm với các loại thức ăn bị nhiễm nấm mốc, ôi thiu. Độc tố Aflatoxin không chỉ được sản sinh từ nấm và các nguyên liệu thức ăn như bắp, đậu phộng và một vài loại hạt khác có chứa dầu... mà chúng còn tồn tại ở những nền chuồng nuôi thả đất chứa trấu, dăm bào trong điều kiện thời tiết nóng, độ ẩm cao.
Phòng bệnh bằng cách cho chim cút thịt ăn thức ăn mới, đảm bảo chất lượng, không ẩm mốc, ôi thiu; trộn thuốc (Propionic axit, Mycostantin, Thiabendazonel) theo ti lệ thích hợp vào thức ăn. Giải độc bằng cách thay toàn bộ thức ăn đã bị nhiễm nấm mốc và độc tố Aflatoxin, giải độc gan cho chim bằng các loại thuốc chuyên dùng.
Bệnh thiếu khoáng và vitamin
Khoáng, vitamin rất cần thiết cho sinh trưởng, phát triển của chim thịt. Nếu thiếu khoáng, vitamin, chim dễ mắc các loại bệnh như: thiếu vitamin A, thiếu vitamin E, bại liệt ...
Phòng bệnh bằng cách bổ sung vào thức ăn hay nước uống đủ lượng chất khoáng và Vitamin theo quy định trong khẩu phần ngay từ ngày đầu, kéo dài liên tiếp trong suốt thời gian nuôi thịt.
Trị bệnh bằng cách dùng gấp đôi liều phòng vitamin; tăng gấp rưỡi các nguyên liệu quy định trong khẩu phần.
Ưu điểm của công nghệ, hiệu quả kinh tế
Ngành chăn nuôi cút hướng thịt hiện đang phát triển. Tuy nhiên, tình hình chăn nuôi luôn diễn biến phức tạp, bên cạnh các tác động về kinh tế, chăn nuôi cút còn chịu nhiều yếu tố rủi ro như dịch bệnh,…Vì vậy, người chăn nuôi cần nắm được những nội dung thiết yếu, từ khâu xây dựng chuồng trai; cách chọn giống; kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng; kỹ thuật vệ sinh chuồng trại, môi trường; đến các quy trình thú y, phòng bệnh trên cút thịt.
Mô hình đáp ứng yêu cầu của chăn nuôi hộ gia đình và chăn nuôi trang trại, đảm bảo đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao.
Thông tin liên hệ chuyên gia, hỗ trợ
Phân viện Chăn nuôi Nam bộ
Địa chỉ: Khu phố Hiệp Thắng, phường Bình Thắng, Dĩ An, Bình Dương
Điện thoại: 0274 3739 899.