Tình hình sản xuất và tiêu thụ
Vào năm 2003, kim ngạch nhập khẩu rau tươi của các nước EU đến gần 9,2 tỷ Euro/10,4 triệu tấn. Đáng chú ý là một số lượng ớt khá lớn được nhập vào EU. Nhập khẩu ớt ở các nước EU lên tới hơn 1,3 tỷ EU/865 ngàn tấn vào năm 2003. Đức là nước EU nhập khẩu nhiều ớt nhất, chiếm 34% kim ngạch nhập khẩu của EU năm 2003, tiếp theo là Anh (16%), Pháp (11%) và Hà Lan (6%) (Huỳnh Thị Thúy Oanh, 2010).
Bảng: Thống kê sản xuất ớt trên thế giới giai đoạn 2005 - 2009
Chỉ tiêu
|
2005
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
Diện tích (nghìn ha)
|
1765,60
|
1774,94
|
1778,68
|
1786,60
|
1814,94
|
Năng suất(tấn/ha)
|
14,29
|
14,99
|
15,43
|
15,68
|
15,47
|
Sản lượng (nghìn tấn)
|
25228,35
|
26598,00
|
27450,24
|
28012,54
|
28070,85
|
Nguồn: FAOSTAT Database, tháng10/2011.
Tại các quốc gia châu Á, ớt chiếm 60% tổng diện tích và 65% tổng sản lượng ớt tươi của thế giới. Trong đó, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Indonesia chiếm khoảng 87% diện tích sản xuất và 93% tổng sản lượng và 58% giá trị sản xuất ớt ở khu vực này.
Ở nước ta, ớt thường được gieo trồng vào 2 vụ chính là: Vụ đông xuân, gieo hạt từ tháng 10 đến tháng 2, trồng vào tháng 1-2 và thu hoạch vào tháng 4-5. Vụ đông: gieo hạt tháng 6-7, trồng tháng 8-9, thu tháng 1-2. Ngoài ra, có thể trồng ớt trong vụ xuân hè: gieo hạt tháng 2-3, trồng tháng 3-4, thu hoạch vào tháng 7-8 (Nguyễn Văn Thắng và Trần Khắc Thi, 1996).
Mặc dù cây ớt ở nước ta trồng từ lâu đời nhưng chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền Trung (Quảng Bình, Quảng Trị), vùng ven đô, khu vực đông dân cư (Hà Nội, Thái Bình, Hải Hưng, Vĩnh Phúc,…). Vùng chuyên ớt đã được hình thành ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, diện tích ớt có thể mở rộng ra ở đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và miền Tây Nam Bộ (Trần Khắc Thi, 1985).
Theo thống kê của FAOSTAT năm 2007, tổng diện tích sản xuất ớt cay ở Việt Nam là 51 nghìn ha với sản lượng là 314 nghìn tấn. Năng suất bình quân là 6,16 tấn/ha và đem lại kim ngạch xuất khẩu 36,297 triệu đô la (Mai Hải Châu, 2010).
Bảng 2: Tình hình sản xuất ớt tại Việt Nam giai đoạn 2005 - 2009
Chỉ tiêu
|
2005
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
Diện tích (nghìn ha)
|
55,51
|
57,06
|
57,90
|
59,73
|
62,41
|
Năng suất ớt khô (tấn/ha)
|
1,55
|
1,48
|
1,65
|
1,76
|
1,81
|
Sản lượng ớt khô (nghìn tấn)
|
85,88
|
84,38
|
95,51
|
105,13
|
112,94
|
Nguồn: FAOSTAT Database, tháng 10/2011.
Trước đây, hàng năm nước ta xuất khẩu sang Liên Xô khoảng 4.500 tấn ớt bột, những năm gần đây một số công ty của Đài Loan đã ký hợp đồng mua ớt cay tươi hoặc muối chua của Việt Nam. Năm 2007, Trung Quốc, Singapores, Ấn Độ là những thị trường nhập khẩu ớt chủ yếu của nước ta. Giá nhập khẩu ớt khô của nước ta tăng rất mạnh, nhập khẩu sang thị trường Trung Quốc từ 1.800 – 3.280 USD/tấn, nhập sang thị trường Singapores và Ấn Độ khoảng 350 USD/tấn.
Quy trình, phương pháp tổ chức thực hiện
1. Chuẩn bị nhà màng
Nhà màng được thiết kế với nhiều kiểu khác nhau: Kiểu nhà kính, nhà màng kiểu cổ điển, nhà màng kiểu răng cưa, kiểu mái vòm, kiểu hình ống, nhà lưới,...Tuy nhiên cần đảm bảo các điều kiện như: độ truyền sáng từ 85 - 90%; quy cách: độ cao cột (chiều cao từ mặt đất đến máng xối) từ 4 - 4,75m, khẩu độ mỗi gian nhà là 8m, cột cách cột (bước cột) là 4m. Với mái được lợp bằng màng Polymer (dày 150 micron) và vách xung quanh được che bằng lưới chắn côn trùng dày 50 mesh.
Hình: Kiểu nhà màng thông gió cố định
2. Chọn giống
Tùy theo điều kiện và nhu cầu của thị trường có thể chọn giống ớt cay có hình thức, chất lượng phù hợp như: Ớt hiểm lai F1 207; Ớt hiểm Chánh phong 01; Ớt hiểm Chánh phong 131; ớt sừng Trung Nông; Ớt sừng Trang Nông 447.
3. Chuẩn bị cây con
Khay ươm gieo hạt: Khay ươm thường làm bằng vật liệu mốp xốp, có kích thước dài 50 cm, rộng 30 cm, cao 5 cm (loại 50 lỗ/khay).
Thành phần giá thể: Sử dụng mụn xơ dừa, phân trùn quế (1,5 N - 0,5 P2O5 - 0,5 K2O) và tro trấu với tỷ lệ 70% mụn xơ dừa + 20% phân trùn quế + 10% tro trấu (tính theo thể tích).
Xử lý giá thể:
- Mụn xơ dừa: phải xử lý chất chát (tanin) trước khi trồng.
- Phân trùn quế: được xử lý nấm bệnh bằng chế phẩm sinh học BIMA.
Gieo hạt: Giá thể được cho vào đầy lỗ mặt khay, tiến hành gieo 1 hạt/lỗ (hạt khô không cần ủ), độ sâu hạt gieo từ 0,5- 1cm, sau đó bổ sung thêm một lớp giá thể phủ lên trên bề mặt.
Chăm sóc: Khay ươm được đặt trong nhà ươm có che mưa và lưới chắn côn trùng. Hàng ngày, tưới nước giữ ẩm đảm bảo cho hạt nảy mầm đồng đều. Khi hạt nảy mầm và xuất hiện lá thật thứ nhất, tiến hành phun phân bón lá Growmore 30-10-10 với nồng độ là 1g/lít nước để cung cấp dinh dưỡng cho cây con. Sau khi gieo từ 25 - 30 ngày, cây đạt chiều cao 12 – 15 cm hoặc khi cây có 4 - 6 lá thật thì tiến hành trồng cây vào bầu. Trước khi trồng 5 - 7 ngày nên giảm lượng nước tưới (huấn luyện cây con) giúp cây cứng cáp, mau hồi phục sau khi trồng.
4. Chuẩn bị giá thể trồng
Cách xử lý giá thể trồng cũng như xử lý phân trùn quế tương tự như giá thể gieo ươm cây con.
Giá thể được sử dụng là hỗn hợp mụn dừa, trùn quế và tro trấu với tỷ lệ 70% mụn xơ dừa + 20% phân trùn quế + 10% tro trấu (tính theo thể tích).
Giá thể sau khi xử lý được cho vào các các túi ni lông trồng cây (túi có màu trắng, kích thước túi 40 cm x 40 cm, được đục lỗ xung quanh đáy túi (16 lỗ); 6 kg giá thể/túi).
5. Thiết bị tưới
Kiểu lắp đặt và bố trí hệ thống tưới: Trang thiết bị tối thiểu cho một hệ thống tưới nhỏ giọt cần có: Bể chứa dung dịch dinh dưỡng, máy bơm, hệ thống dây dẫn dinh dưỡng, ống PVC, bộ lọc, van từ và đồng hồ hẹn giờ (timer).
Sử dụng loại dây tưới nhỏ giọt với chiều dài dây tưới là 60 cm, đường kính 4 mm; dây tưới này được cắm trực tiếp vào đường ống đẫn dinh dưỡng theo hàng với đường kính ống là phi 16. Bố trí mỗi hàng là 1 đường dây dẫn, mỗi túi ni lông cắm 1 dây tưới nhỏ giọt nên mật độ dây tưới tương đương mật độ túi ni lông.
6. Trồng và chăm sóc
- Cây được trồng trong túi ni lông; trồng 1 cây/túi và trồng theo hàng đôi.
- Khoảng cách trồng và mật độ trồng ớt cay:
+ Đối với ớt hiểm: Khoảng cách giữa 2 cây trên một hàng là 50 - 60cm; khoảng cách giữa 2 hàng đơn là 40 cm; khoảng cách giữa 2 hàng đôi là 1,4 m. Mật độ từ 18.000 – 22.000 cây/ha.
+ Đối với ớt sừng: Khoảng cách giữa 2 cây trên một hàng là 40 - 50cm; khoảng cách giữa 2 hàng đơn là 40 cm; khoảng cách giữa 2 hàng đôi là 1,2 m. Mật độ: 19.000 – 22.000 cây/ha.
- Nưới tưới: sử dụng nguồn nước sạch, pH nước tốt nhất từ 6,0 – 7,0. Có thể sử dụng nước giếng khoan hay nước sông không nhiễm mặn, phèn, kim loại nặng và vi sinh vật gây hại.
Dung dịch dinh dưỡng và nước tưới được cung cấp đồng thời thông qua hệ thống tuới nhỏ giọt. Dựa vào nhu cầu dinh dưỡng và giai đoạn sinh trưởng của cây để xác định nồng độ dung dịch tưới phù hợp.
Lượng nước tưới cho cà chua được thực hiện như sau:
- Dinh dưỡng và nước tưới được cung cấp đồng thời thông qua hệ thống tưới nhỏ giọt. Nồng độ và liều lượng các chất dinh dưỡng được sử dụng như sau:
Bảng: Nồng độ dinh dưỡng tưới (ppm) cho ớt cay trồng trong nhà màng
Tên phân bón
|
Trồng – ra hoa
|
Đậu quả –Thu hoạch
|
N
|
120
|
150
|
P
|
50
|
50
|
K
|
120
|
160
|
Ca
|
160
|
160
|
Mg
|
50
|
50
|
Fe
|
2,8
|
2,8
|
Cu
|
0,2
|
0,2
|
Mn
|
0,8
|
0,8
|
Zn
|
0,3
|
0,3
|
B
|
0,7
|
0,7
|
Mo
|
0,05
|
0,05
|
Bảng: Chế độ tưới cho ớt cay trồng trong nhà màng
STT
|
Giai đoạn
|
Số lần tưới/ngày (lần)
|
Thời gian tưới
(phút)
|
Lượng nước trung bình (lít)/bầu/ngày
|
1
|
Từ trồng đến 30 ngày
|
4 - 5
|
4 - 6
|
0,5 - 0,8
|
2
|
Sau trồng 30 ngày
|
6
|
6 - 8
|
1,0 - 1,2
|
3
|
Sau trồng 60 ngày
|
8
|
8 - 10
|
1,2 - 1,5
|
4
|
Giai đoạn thu hoạch
|
8 - 10
|
8 - 10
|
1,5 - 2,0
|
pH cho dịch tưới là: từ 5,5 - 6,5 và EC trong dung dịch tưới từ 1,8 – 2,0 dS/m. Quá trình tưới nước cho cây nên tưới dư khoảng 10%.
- Tỉa nhánh: Nên tỉa bỏ bớt chồi nhánh ở phía dưới, để lại thân chính và các nhánh nằm bên trên (cách gốc 10 - 15 cm tùy cây), giúp cây hạn chế phát triển chiều cao, tăng số nhánh, tăng tỉ lệ đậu trái, thu hoạch tập trung, năng suất cao.
- Cố định cây: Cây được treo cố định sau tỉa nhánh, sử dụng dây để buộc sát gốc ớt, định kỳ quấn ngọn ớt theo dây buộc.
- Làm giàn: Ớt lai F1 sinh trưởng mạnh, cần phải làm giàn giúp cây đứng vững, dễ thu hái, kéo dài thời gian thu hoạch, chăm sóc dễ dàng, cây ít nhiễm bệnh. Thời gian làm giàn thích hợp khoảng 45 đến 50 ngày sau trồng.
Giàn được làm bằng cây và dây ni lông. Mỗi hàng ớt cắm 2 trụ cây lớn ở 2 đầu, dùng dây căng dọc theo hàng ớt nối với 2 trụ cây, cách 3m cắm 2 trụ nhỏ đỡ dây ni lông, khi cây ớt cao tới đâu căng dây tới đó để đỡ nhánh không bị gãy.
- Thụ phấn: Hằng ngày, vào các buổi sáng (8 - 9 giờ) rung cây giúp cho quá trình thụ phấn tốt.
Ớt trồng trong nhà màng chủ yếu bị một số loài sâu, bệnh hại như: bọ trĩ (Thrips palmi Karny), nhện đỏ (Tetranychus spp.), bệnh chết cây con (Pythium ssp, Fusarium oxysporium, Rhizoctonia solani,…). Bệnh héo xanh vi khuẩn (Ralstonia solanacearum) và bệnh thán thư (Colletotrichum spp.) là những bệnh gây hại rất nghiêm trọng trên ớt, tuy nhiên ở điều kiện trồng trong nhà màng được che chắn, giá thể được xử lý và sử dụng các biện pháp vệ sinh phòng ngừa khác nên 2 đối tượng này hầu như không xuất hiện, đặc biệt trong mùa mưa.
Cách phòng trừ: Sử dụng biện pháp sinh học hoặc hóa học để phòng trừ. Sử dụng các loại thuốc phòng trừ theo danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng ở Việt Nam.
7. Thu hoạch
Thu hoạch trái trước khi quá chín. Thông thường từ 35 - 40 ngày sau khi đậu trái, khoảng 85 - 90 ngày sau khi trồng có thể bắt đầu thu hoạch. Mỗi đợt thu hoạch cách nhau từ 3 - 5 ngày tùy thời điểm. Sau khi thu hoạch đưa vào nơi thoáng mát để bảo quản, tiến hành phân loại, bỏ lá, cành nhánh hoặc trái hư không đạt tiêu chuẩn.
Các điều kiện sản xuất
Quy trình trồng cay trên giá thể trong điều kiện nhà màng áp dụng tưới nhỏ giọt, các điều kiện sản xuất như sau:
1. Điều kiện nhà màng
Nhà màng được thiết kế với nhiều kiểu khác nhau, tuy nhiên cần đảm bảo các điều kiện như: Độ truyền sáng từ 85 - 90%; quy cách: độ cao cột (chiều cao từ mặt đất đến máng xối) từ 4 - 4,75m, khẩu độ mỗi gian nhà là 8m, cột cách cột (bước cột) là 4m. Với mái được lợp bằng màng Polymer (dày 150 micron) và vách xung quanh được che bằng lưới chắn côn trùng dày 50 mesh.
2. Điều kiện tưới nhỏ giọt
- Nguồn nước mặt hoặc nước ngầm.
- Một máy bơm thông thường động cơ điện hay dầu, xăng, có khả năng bơm nước lên độ cao 3,5 m. Có thể lắp thêm rơle tự đóng mở (đối với hệ thống bơm điện để tự động bơm nước vào bồn).
- Ống nhựa PVC cứng đường kính 30-40 hay 60 mm làm ống dẫn nước chính và loại đường kính 16-21 hay 26 mm làm ống dẫn phụ.
- Các phụ kiện lắp ráp hệ thống ống gồm các co, khúc nối thẳng, khúc nối chữ T, khúc nối giảm đường kính ống, ống van cánh bướm và keo để dán các khúc nối.
- Ống nhựa dẻo đường kính 16 mm và một trong những loại vòi phun tia li tâm, phun tia cố định, nhỏ giọt. Có thể chế đầu nhỏ giọt bằng ống và van của hệ thống truyền "nước biển" dùng trong y tế.
- Tất cả đường ống chính và phụ cần được chôn sâu 20-30 cm để kéo dài tuổi thọ của ống, đoạn cuối của ống nhánh cũng cần được che phủ tránh nắng và rêu phát triển trong ống.
- Thường xuyên giặt rửa lưới lọc nước trên bồn.
- Sau mùa tưới, mở khóa đầu các ống nhánh, xả bỏ cặn toàn bộ hệ thống.
Ưu, nhược điểm của công nghệ
1. Ưu điểm và hạn chế của hệ thống nhà màng
- So với canh tác truyền thống, hệ thống chăm sóc cây trồng trong nhà màng hiện đại mang lại thực sự nhiều lợi ích: bảo vệ cây trồng trước các điều kiện thời tiết bất lợi; tiết kiệm công lao động trong các khâu: tưới nước, bón phân, làm cỏ, phun thuốc; năng suất tăng gấp 1,5 - 2 lần so với trồng truyền thống.
- Nhà màng có mái được lợp bằng màng Polymer và vách xung quanh được che bằng lưới chắn côn trùng nên hạn chế được một số loại sâu bệnh hại trên cây cà chua.
- Có thể trồng cà chua trong nhiều vụ.
- Kiểm soát được các yếu tố đầu vào (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật,…) do đó, sản phẩm sau thu hoạch đảm bảo an toàn, đạt chất lượng.
- Chi phí đầu tư xây dựng nhà màng ban đầu lớn, để đầu tư 1.000 m2 nhà màng cần có tối thiểu 80 triệu đồng cho mô hình nhà màng đơn giản (cột thép và dây cáp), từ 300 – 350 triệu đồng cho kiểu nhà kiên cố và tốt nhất là nhà màng có hệ thống nhà điều hành của Israel, Hà Lan: Điều khiểu tưới nước và phân bón tự động, có hệ thống làm mát giữ nhiệt độ ổn định 27-280C, có hệ thống mái che 3 lớp di động, khung chịu được sức gió trên 120km/h với giá 1,2 tỷ đồng.
- Yêu cầu kỹ thuật nghiêm ngặt, tuân thủ theo quy trình.
2. Ưu điểm và hạn chế của hệ thống tưới nhỏ giọt
- Tưới nhỏ giọt (Drip irrigation/Strickle irrigation) là dạng tưới tiết kiệm nước hay còn gọi là vi tưới (micro irrigation). Tưới nhỏ giọt đưa nước trực tiếp trên mặt đất đến gốc cây trồng liên tục dưới dạng từng giọt nhờ các thiết bị tưới đặc trưng tạo giọt.
- Giúp tiết kiệm nước, tiết kiệm điện và hao phí lao động tạo ra sản phẩm.
- Tưới nhỏ giọt đảm bảo phân bố độ ẩm đều quanh gốc rễ, tạo điều kiện thuận lợi về chế độ không khí, nhiệt độ, độ ẩm, dinh dưỡng, quang hợp… cho cây trồng.
- Cung cấp một cách đều đặn lượng nước tưới cần thiết nhưng tránh được hiện tượng tập trung muối trong nước tưới.
- Tưới nhỏ giọt tiết kiệm nước đến mức tối đa, giãm đến mức tối thiểu các tổn thất lượng nước tưới do bốc hơi, thấm...
- Tưới nhỏ giọt không gây ra hiện tượng xói mòn đất, không tạo nên váng đất đọng trên bề mặt và không phá vỡ cấu tượng đất.
- Tưới nhỏ giọt đảm bảo năng suất tưới, năng suất lao động được nâng cao không ngừng vì có khả năng cơ khí hóa, tự động hóa nông nghiệp ở khâu nước tưới. Tưới nhỏ giọt tạo điều kiện cho cơ giới hóa, tự động hóa thực hiện tốt một số khâu như phun thuốc trừ sâu, bón phân hóa học kết hợp với tưới nước.
- Tưới nhỏ giọt phụ thuộc rất ít vào các yếu tố thiên nhiên như độ dốc của địa hình, thành phần và cấu trúc đất tưới, mực nước ngầm nông hay sâu, ảnh hưởng của sức gió... Tưới nhỏ giọt phù hợp với mọi địa hình nông nghiệp Việt Nam.
- Tưới nhỏ giọt sử dụng cột nước áp lực làm việc thấp, lưu lượng nhỏ nên tiết kiệm năng lượng, giảm chi phí vận hành.
- Tưới nhỏ giọt góp phần ngăn chặn sự phát triển của cỏ dại quanh gốc cây và sâu bệnh vì lượng nước chỉ cung cấp làm ẩm gốc cây.
- Tưới nhỏ giọt cung cấp nước thường xuyên, duy trì chế độ ẩm thích hợp theo nhu cầu sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng. Nhờ đó, cây sinh trưởng tốt, phát triển nhanh, đạt năng suất cao.
- Hệ thống ống tưới nhỏ giọt hay bị tắt nghẽn do bùn cát, rong, tảo, tạp chất hữu cơ, các chất dinh dưỡng không hòa tan... Chính vì vậy, nguồn nước tưới của hệ thống tưới nhỏ giọt cần phải được xử lý qua bộ lọc.
- Tưới nhỏ giọt không có khả năng làm mát cây và cải tạo vi khí hậu như tưới phun mưa, không có khả năng rửa lá giúp cây quang hợp tốt.
- Tưới nhỏ giọt cần phải có vốn đầu tư ban đầu, người đầu tư phải có trình độ tiếp cận kỹ thuật tưới.
- Khi tưới nhỏ giọt bị gián đoạn, cây trồng sẽ xấu đi nhiều so với các phương pháp tưới khác.
Hiệu quả mô hình
1. Hiệu quả kinh tế
Lợi nhuận đem lại khi trồng ớt cay trên giá thể trong nhà màng áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt dao động từ 28 – 30 triệu đồng/vụ/1.000 m2 (tương đương 500 - 600 triệu đồng/ha/năm); Giá cả và đầu ra ổn định.
2. Hiệu quả xã hội
- Quy trình áp dụng kỹ thuật mới trong sản xuất, giúp cho người sản xuất tiếp cận với phương thức sản xuất tiên tiến.
- Quy trình được sản xuất trong nhà màng, do đó ít phụ thuộc vào thời vụ trồng, giảm sâu bệnh gây hại nên giảm lượng thuốc BVTV, sản phẩm an toàn cho người sử dụng, tăng giá trị sử dụng trên 1 đơn vị diện tích.
- Áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt: Phân bón được cung cấp theo hệ thống tưới giúp cây trồng dễ hấp thu. Tăng hiệu quả sử dụng phân bón.
- Tạo sản phẩm đạt an toàn, có độ tin cậy cao đối với người tiêu dùng, tăng khả năng thâm nhập thị trường và tăng hiệu quả cạnh tranh.
3. Hiệu quả môi trường
- Do hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nên giảm gây ô nhiễm môi trường.
- Sử dụng giá thể là mụn xơ dừa, phân trùn quế,... tận dụng được các phế phẩm trong nông nghiệp.
Thông tin liên hệ chuyên gia hỗ trợ
Họ tên chuyên gia: Hoàng Đắc Hiệt
Nơi công tác: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao
Địa chỉ: Ấp 1, xã Phạm Văn Cội, huyện Củ Chi, TP.HCM
Điện thoại: 0935.805.869
Email: hoanghietcnc@gmail.com