Kẹo cao su (chewing-gum) là một trong những sản phẩm được yêu thích dù công dụng chính dường như chỉ là … giết thời gian.
Sáng chế về kẹo cao su
Kẹo cao su không chỉ làm từ cao su
Con người đã biết thưởng thức kẹo cao su từ rất lâu. Một mẩu kẹo cao su 5.000 năm tuổi đã được Sarah Pickin, một sinh viên khảo cổ học Trường Đại học Derby tìm thấy ở phía tây Phần Lan. Các nhà khoa học cho biết mẩu kẹo cao su này có chứa chất khử trùng.
Thầy của Pickin, giáo sư Trevor Brown cho biết: “Điều này đặc biệt có ý nghĩa bởi các dấu vết răng của người cổ đại còn in hằn rõ trên mẩu kẹo cao su được tìm thấy. Nó chính là nhựa vỏ cây bulô có chứa chất phenol, một loại chất khử trùng”. Không chỉ để giết thời gian, những người thuộc thời kỳ đồ đá mới đã biết nhai kẹo cao su có chất khử trùng để chữa bệnh nhiễm trùng răng lợi.
Người Hy Lạp cổ đại từng có thói quen nhai một chất gọi là mastic (hoặc mastiche), loại nhựa chiết từ loại cây có quả hình nón như thông hoặc vân sam. Người Maya thì nhai loại nhựa lấy từ cây hồng xiêm, được chế biến cho dẻo hơn. Còn các loại kẹo cao su hiện đại có từ những năm 1860, khi chất chicle dùng làm kẹo cao su ra đời. Chicle ban đầu được nhập khẩu từ Mexico, được lấy từ cây thường xanh Manilkara chicle, theo cách giống như lấy nhựa từ cây cao su. Kẹo cao su chicle được ưa chuộng hơn so với kẹo cao su làm từ nhựa thông, bởi nó mềm, mịn và giữ mùi vị lâu hơn.
Ngày nay, vì lý do kinh tế và chất lượng nên kẹo cao su thường làm từ cao su tổng hợp, các hợp chất có tính đàn hồi, gum có trọng lượng phân tử cao…
Quy trình làm kẹo cao su
Tán nhỏ chất gum nền: chất gum nền thiên nhiên làm từ nhựa của các loại cây như chicle (một loại cây thuộc giống hồng xiêm), jelutong, gutta-percha, thông… Ngoài ra còn có các loại sáp parafin, sáp ong. Nếu sử dụng chất gum nền từ tự nhiên thì hợp chất này phải qua một số xét nghiệm kiểm tra tạp chất trước khi sử dụng. Hiện nay, kẹo cao su chỉ sử dụng một lượng tối thiểu hoặc hoàn toàn không sử dụng cao su thiên nhiên mà thay thế bởi cao su tổng hợp như butadien-styrene, polyethylene, và polyvinyl acetate. Chất gum nền tổng hợp này cho phép kẹo cao su giữ được hương vị lâu hơn, kết cấu được cải thiện và độ bám dính giảm. Chất gum nền ban đầu thường có dạng khối rắn lớn do đó phải tán thành những mảnh nhỏ hơn trước khi sử dụng.
Nấu chảy chất gum nền: đun nóng chất gum nền tới 900C - 1200C để tan chảy thành dạng sệt. Máy nấu chất gum nền thường được làm nóng bằng hơi nước.
Phối trộn: sau khi nấu chảy, chất gum nền được lọc qua máy lọc và thêm vào chất làm ngọt tự nhiên hoặc nhân tạo như đường xay nhuyễn, maltose, chất làm mềm như như glycerine, chất làm đầy (để tạo nên khối lượng riêng mong muốn), hương liệu như bạc hà hoặc quế, chất tạo màu, chất bảo quản... Sau đó hỗn hợp này được trộn trong khoảng 20 - 25 phút ở nhiệt độ 50 - 700C để tránh hiện tượng kết tụ gum.
Tạo hình: sau khi trộn, hỗn hợp được đưa vào máy ép đùn và máy lăn để tạo thành các dải kẹo cao su có kích thước mong muốn. Một lớp mỏng đường hoặc chất thay thế đường được phủ lên dây kẹo cao su trong quá trình này để giữ cho kẹo cao su không bị dính và tăng hương vị.
Ổn định và bao gói: các dải kẹo cao su được lưu trữ khoảng một ngày nơi thông gió với nhiệt độ từ 20 - 220C và độ ẩm khoảng 50% để làm mát và đảm bảo kẹo ổn định về cấu trúc và mùi vị khi đưa ra thị trường. Sau đó, các dải kẹo này được cắt thành thanh dài hoặc chữ nhật tùy thuộc loại kẹo cao su và đưa sang máy bao gói. Những sản phẩm không đáp ứng tiêu chuẩn sẽ được đưa đến máy nghiền để tái chế.
Viên kẹo nhỏ nhưng có rất nhiều nghiên cứu
Theo dữ liệu sáng chế (SC) tiếp cận được có đến 12.757 SC liên quan đến sản xuất kẹo cao su trên toàn thế giới. Các SC có xu hướng tăng dần từ năm 1975 đến năm 2009. Số lượng SC được đăng ký nhiều nhất vào năm 2009 với 718 SC, sau đó giảm mạnh và trong năm 2012 chỉ có 11 SC về kẹo cao su. Hầu hết các SC đăng ký về kẹo cao su được xếp vào lĩnh vực thực phẩm (62%). Ngoài ra, SC dùng trong y tế để chăm sóc răng miệng hoặc cai thuốc lá… chiếm 28%. Các lĩnh vực còn lại chiếm tỉ trọng không cao.
Ngay các nhãn hàng kẹo đã thành danh trên thế giới cũng luôn có những nghiên cứu và cho ra đời sản phẩm mới. Ví dụ như kẹo cao su Stride, thay đổi hương vị từ hoa quả sang bạc hà để hấp dẫn người lớn. Kẹo Trident kết hợp nhiều hương vị trái cây trong một viên kẹo, chẳng hạn như dâu tây và cam quýt, hoặc có thêm vitamin C trong kẹo. Một số kẹo cao su của các hãng Nhật Bản còn bổ sung collagen và thêm hương vị lạ hơn như lựu. Công ty BASF của Đức, sản xuất kẹo có chứa một loại vi khuẩn lactobacillus, bảo vệ răng. Liên minh hợp tác xã Consorcio Chiclero sản xuất loại kẹo cao su mới không bám dính vào quần áo, dễ dàng loại bỏ và phân hủy tự nhiên trong môi trường. Về hình dáng, kích thước và bao bì được sản xuất rất đa dạng. Kẹo Orbit đổi mới hình ảnh thông qua tài trợ cho dự án điều trị ung thư vú với hình dải băng màu hồng trên bao bì…Các thương hiệu nổi tiếng còn tập trung phát triển dòng sản phẩm kẹo cao su không đường nhằm giảm phát triển mảng bám trên răng hay kẹo dành riêng cho những người đang cố gắng bỏ thuốc lá.
Hiện nay, công ty nắm giữ nhiều SC nhất trong lĩnh vực kẹo cao su là Wrigley với 1.884 SC, gấp đôi công ty đứng thứ hai là Warner Lambert và gấp hơn 4 lần công ty đứng thứ ba là Cadbury.
Kẹo cao su: cạnh tranh gay gắt trên thị trường đã bão hòa
Kẹo cao su đã phát triển nhanh chóng trong thập kỷ qua, với doanh số bán hàng toàn cầu tăng 37% kể từ năm 2001, theo Euromonitor. Tổng doanh thu từ kẹo cao su đạt 24 tỉ USD trong năm 2010. Tuy nhiên, doanh số này không tăng nhiều trong thời gian gần đây do thị trường đã có xu hướng bão hòa. Để thay đổi điều này, các nhà sản xuất kẹo cao su đã đưa ra rất nhiều đổi mới thú vị cho sản phẩm của mình. Để mở rộng thị trường, nhiều công ty có xu hướng tiến đến các thị trường mới như Mexico Nhật Bản, Brazil, Trung Quốc, Việt Nam…Các vụ sáp nhập các công ty cũng được thực hiện để giảm các đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, các nhà sản xuất còn tăng cường quảng cáo. Được biết, doanh số kẹo cao su tăng 30% khi lệnh cấm hút thuốc lá được ban hành ở Ireland vào năm 2004.
Hiện tại, công ty Wrigley, Mỹ đang dẫn đầu thị trường kẹo cao su trên toàn cầu cả về thị phần lẫn số lượng các SC, các loại kẹo như Double Mint, Juicy Fruit, Extra… của Wrigley rất phổ biến. Tại Việt Nam, các loại kẹo cao su trên thị trường thường có nguồn gốc từ các công ty nước ngoài như Wrigley, Lotte, Perfetti Van Melle…
Nhiều nghiên cứu cho thấy tác dụng tích cực của kẹo cao su như ăn kẹo cao su có thể cải thiện trí nhớ và kỹ năng nhận thức, bảo vệ sức khỏe răng miệng, nhai kẹo cao su trước bữa ăn trưa giúp tiêu thụ ít calo hơn, ….Tuy nhiên, đây cũng là sản phẩm gây nhiều tranh cãi trên thế giới do bã kẹo cao su khó phân hủy khi thải ra môi trường tự nhiên, dính rất chắc với bêtông và những bề mặt cứng khác, rất khó khăn để loại bỏ chúng. Tại Singapore, từ năm 1992 cấm nhập khẩu và bán các loại kẹo cao su. Từ năm 2004, chỉ có những loại kẹo cao su có tác dụng trị liệu mới được phép nhập khẩu vào Singapore từ Mỹ theo Hiệp định Tự do thương mại giữa hai nước. Chính phủ Anh từng ban hành một thông báo hạn chế bán loại kẹo này. Tại Ý, có một chiến dịch “Chúng ta vì Rôma” thu nhặt bã kẹo cao su bị vứt bừa bãi ở các khu di tích lịch sử cũng như trên các con đường, vỉa hè ở thủ đô.
Những tranh cải chính do mâu thuẫn giữa sự hấp dẫn về doanh số và tác hại không nhỏ đến môi trường của viên kẹo cao su bé xíu.
Hoàng Long, STINFO Số 9/2012
Tư liệu liên quan:
Sáng chế về kẹo cao su Phương pháp sản xuất kẹo cao su dạng bột / hương cao / chứa nicotin; Gôm nền không dính dùng làm kẹo cao su.