Năm 2010 đánh dấu một điểm mốc quan trọng trên con đường phát triển của Ngành Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Năm mươi năm qua, nền khoa học và công nghệ Việt Nam được xây dựng và trưởng thành trong một thời kỳ lịch sử có ý nghĩa to lớn và đặc biệt đối với dân tộc Việt Nam. Đó là những năm tháng hào hùng trong một kỷ nguyên mới của lịch sử đất nước, chứng kiến những bước tiến đầy hy sinh, gian khổ nhưng vô cùng vinh quang của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, ngành khoa học và công nghệ đã góp phần vào những thành tựu vĩ đại đó.
Ngay từ giai đoạn đầu thành lập (1959-1975), khi cả dân tộc đang dồn sức cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, khoa học và công nghệ Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Ủy ban Khoa học Nhà nước đã trở thành một lực lượng hậu phương quan trọng. Một mặt, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nâng cao năng suất lao động và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Mặt khác, chủ động và sáng tạo tham gia phát triển tiềm lực kỹ thuật quân sự để chống trả cuộc chiến tranh với kỹ thuật cao của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Mặc dù lực lượng vẫn còn non trẻ, các nhà khoa học Việt Nam, gồm các kỹ sư, các kỹ thuật viên, công nhân kỹ thuật đã tiến hành điều tra khảo sát tài nguyên khoáng sản ở nhiều miền xa xôi của đất nước, đã tham gia thiết kế thi công những công trình như đại thủy nông Bắc Hưng Hải, nhà máy cơ khí Trung quy mô, Khu gang thép Thái Nguyên, mỏ apatit Lào Cai…
Với tiềm lực sơ khai nhưng trong giai đoạn này, hoạt động sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động đã trở thành phong trào sâu rộng trên toàn miền Bắc, góp phần thực hiện thắng lợi các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Các nhà khoa học Việt Nam đã có được các công trình nghiên cứu ứng dụng giống cây mới và quy trình gieo cấy tiên tiến, bảo đảm lương thực chi viện cho miền Nam; các công trình y dược về sốt rét, lây nhiễm, da liễu, ngoại khoa đã phục vụ kịp thời việc chăm sóc sức khỏe nhân dân và lực lượng quân đội trên chiến trường; hệ thống các công trình nghiên cứu kỹ thuật quân sự chống nhiễu ra-đa, cải tiến tên lửa phòng không, rà phá bom và thủy lôi từ trường là những dấu mốc quan trọng trong quá trình trưởng thành của lực lượng khoa học và công nghệ Việt Nam, góp phần cùng với quân và dân cả nước đánh thắng cuộc chiến tranh với kỹ thuật cao của đối phương, hoàn thành sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bước sang thời kỳ hòa bình, từ năm 1976, khoa học và công nghệ của chúng ta lại cùng với nhân dân cả nước nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế trong hoàn cảnh bị bao vây cấm vận đầy khó khăn, thử thách. Phối hợp chặt chẽ với các ngành kinh tế, ngoại giao, an ninh, quốc phòng, khoa học và công nghệ Việt Nam đã tham gia hiệu quả vào công cuộc Đổi mới đất nước do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng, xóa bỏ cơ chế bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế, phát huy mọi nguồn lực để giữ vững ổn định chính trị và thực hiện thành công công cuộc Đổi mới.
Trong công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ngày nay, khoa học và công nghệ nước ta đã có những bước tiến quan trọng về mọi mặt, đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính phủ đánh giá cao các nỗ lực cải cách, đổi mới trong hệ thống quản lý khoa học và công nghệ hòa nhịp với sự đổi mới chung về kinh tế - xã hội, đặc biệt trong 10 năm gần đây với những tiến bộ trong quản lý Nhà nước bằng công cụ pháp luật, đổi mới phương thức tổ chức, thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, phát huy tính tự chủ, phát triển doanh nghiệp khoa học và thị trường công nghệ, hình thành hành lang pháp lý thuận lợi và đồng bộ cho hoạt động khoa học và công nghệ.
Hệ thống văn bản pháp luật được xây dựng đồng bộ và cơ bản hoàn thiện với 8 đạo luật chuyên ngành, thể hiện rõ nét sự đổi mới mang tính đột phá. Công tác quản lý khoa học công nghệ gắn với quản lý kinh tế xã hội. Khoa học công nghệ đã đổi mới cách nghĩ, cách làm để hòa nhập với sự đổi mới chung của kinh tế xã hội.
Cùng với những đổi mới căn bản trong công tác quản lý, tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước đã được tăng cường và có bước phát triển rõ rệt. Hệ thống cơ quan khoa học bắt đầu từ 8 viện nghiên cứu, đến nay đã bao gồm 1.500 viện, trung tâm nghiên cứu thuộc mọi thành phần kinh tế. Số lượng nguồn nhân lực có khả năng tham gia nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trên toàn quốc đạt trên 2,6 triệu người. Trong đó, có gần 60 nghìn người trực tiếp làm công tác nghiên cứu tại các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp. Kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ tuy chưa lớn nhưng đã được tăng cường đáng kể từ ngân sách nhà nước và các nguồn lực xã hội khác. Hạ tầng thông tin và cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị, phòng thí nghiệm phục vụ công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ được nâng cấp và cải thiện. Quan hệ hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ được mở rộng với gần 100 nước, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế.
Các thành tựu khoa học và công nghệ trong những năm gần đây đã góp phần quan trọng giải quyết các vấn đề bức xúc do thực tiễn đặt ra trong hầu hết các lĩnh vực phát triển của đất nước.
Trong nông nghiệp, các nhà khoa học trong nước đã tạo được hàng trăm giống cây trồng mới năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng chống chịu sâu bệnh, thay thế giống nhập ngoại, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và đẩy mạnh xuất khẩu. Trong thủy sản, đã có nhiều nghiên cứu thành công đạt trình độ tương đương khu vực và thế giới, tạo được các nguồn giống sinh sản nhân tạo, chất lượng tốt (giống cá, tôm, nhuyễn thể, các loại hải sản có giá trị cao), cải tiến quy trình canh tác, nuôi trồng thủy sản, thu hoạch và chế biến, góp phần thúc đẩy xuất khẩu và tăng trưởng của toàn ngành.
Trong công nghiệp, khoa học và công nghệ đã giúp lựa chọn hướng đi đúng về công nghệ và thúc đẩy năng lực hấp thụ, cải tiến, đổi mới công nghệ của các ngành, lĩnh vực. Các nhà khoa học Việt Nam đã tự nghiên cứu, thiết kế và chế tạo được nhiều thiết bị cơ khí chính xác, siêu trường, siêu trọng; làm chủ công nghệ đóng tàu trọng tải lớn; khai thác dầu khí và tài nguyên khoáng sản; thiết kế, thi công công trình quy mô lớn, phức tạp, các loại cầu vượt sông khẩu độ lớn, các nhà máy nhiệt điện, thủy điện quy mô lớn, các công trình nhà cao tầng, công trình ngầm và nhiều công trình đặc thù khác. Đổi mới công nghệ trong các ngành công nghiệp đã góp phần làm cho sản xuất công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng cao liên tục trong những năm qua.
Trong y tế và bảo vệ sức khỏe cộng đồng, các nhà khoa học đã làm chủ được nhiều công nghệ cao trong chẩn đoán và điều trị bệnh, đưa trình độ y học của nước ta lên ngang tầm với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; đã chủ động sản xuất được nhiều loại vắc-xin, giúp phòng ngừa và từng bước thanh toán các bệnh hiểm nghèo. Nhiều công nghệ kỹ thuật cao (xử lý tế bào gốc, tạo da để chữa bỏng, thụ tinh ống nghiệm, ghép tạng...) và phác đồ điều trị tiên tiến đã được áp dụng giúp chữa trị kịp thời nhiều bệnh nan y, giảm chi phí cho xã hội và cộng đồng.
Đóng góp của lực lượng khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước là to lớn. Đảng, Nhà nước, nhân dân ghi nhận và đánh giá cao những cống hiến và công lao đó của ngành khoa học và công nghệ, đã tặng thưởng Huân chương Sao Vàng cho ngành nhân kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập. Đây là thành quả được ghi nhận của các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức ngành khoa học và công nghệ về những thành tích và sự trưởng thành không ngừng của ngành trong 50 năm qua, đặc biệt là những hy sinh thầm lặng và lao động quên mình của các thế hệ các nhà khoa học Việt Nam trên mọi miền đất nước và cả ở nước ngoài, đã đóng góp to lớn cho sự nghiệp bảo vệ đất nước trong thời chiến, xây dựng đất nước trong thời bình, vì sự phát triển và phồn vinh của dân tộc.
Tự hào về sự trưởng thành của ngành khoa học và công nghệ trong 50 năm qua, về sự đóng góp xứng đáng của ngành vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc, các thế hệ những người làm công tác khoa học có đủ niềm tin để vượt mọi khó khăn, thách thức, đưa ngành khoa học và công nghệ tiến nhanh hơn, mạnh hơn, đóng góp thiết thực và hiệu quả hơn cho dân tộc và cho đất nước trên chặng đường dài phía trước.
QT (theo Báo Khoa học và phát triển)